Chuỗi giá trị của ngành thủy sản Việt Nam
Chuỗi giá trị của ngành thủy sản Việt Nam được hình thành bởi các “mắt xích” trong chuỗi bao gồm: (1) người khai thác và nuôi trồng thủy sản, (2) đội ngũ những đại lý thu mua, (3) doanh nghiệp chế biến hoặc chế biến kiêm xuất khẩu và (4) doanh nghiệp chuyên hoạt động thương mại xuất khẩu, trong đó, mắt xích số 2 là các đại lý trung gian trong việc đưa thủy sản từ các hộ sản xuất đến với DN và thị trường, trong một số trường hợp, trung gian này còn có thể cung cấp các yếu tố đầu vào cho người nuôi (tín dụng, giống, thức ăn, hóa chất,...).
Chuỗi giá trị ngành thủy sản bao gồm các giai đoạn từ sản xuất đầu vào, nuôi trồng và khai thác thủy sản, chế biến, đến tiêu thụ. Cụ thể, có các bước chính như sau:
1. Đầu vào:
- Giống thủy sản: Các trại giống cung cấp con giống chất lượng (như tôm, cá tra) là yếu tố quan trọng đầu tiên, ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cuối cùng.
- Thức ăn chăn nuôi: Các công ty sản xuất thức ăn thủy sản cung cấp dinh dưỡng cho thủy sản nuôi trồng. Việc kiểm soát chất lượng thức ăn giúp đảm bảo sự phát triển và chất lượng của thủy sản.
- Thuốc thú y thủy sản: Cung cấp các loại thuốc, hóa chất xử lý môi trường, giúp phòng ngừa dịch bệnh, đảm bảo sức khỏe và giảm thiểu rủi ro cho thủy sản.
2. Sản xuất
Hiện tại ngành thủy sản Việt Nam phát triển 2 loại mặt hàng xuất khẩu chính là tôm (tôm thẻ chân trắng, tôm sú…) và cá tra. Việt Nam là một trong những quốc gia dẫn đầu về sản xuất cá tra và tôm trên thế giới. Các doanh nghiệp thủy sản được niêm yết trên sàn cũng chia làm 2 loại là nuôi trồng chế biến tôm (FMC MPC CMX) và cá tra (VHC ANV ASM IDI). Chuỗi giá trị của 2 loại hình này là tương đối giống nhau nhưng về quy trình sản xuất và bí quyết nuôi trồng và chế biến thì khác xa nhau, do đó doanh nghiệp thường phát triển chủ đạo xoay quanh hoặc tôm hoặc là cá tra.
Khâu sản xuất sẽ bao gồm công đoạn chế biến đông lạnh và chế biến sản phẩm giá trị gia tăng: Các công ty chế biến sẽ sơ chế và xử lý thủy sản để xuất khẩu hoặc bán trong nước. Công nghệ chế biến giúp giữ lại độ tươi ngon, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, đồng thời tạo ra sản phẩm phong phú như cá fillet, tôm bóc vỏ, tôm đông lạnh. Các sản phẩm thủy sản phải tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn, vệ sinh thực phẩm quốc tế để được chấp nhận tại các thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản.
Nhìn chung, thủy sản tươi - nguồn nguyên liệu cho chế biến sẽ đến từ 2 nguồn là thu mua và tự nuôi trồng. Trong đó, tỷ trọng tự nuôi trồng của các DN đang ngày càng tăng do định hướng nâng cao tỷ lệ tự chủ nguyên liệu của các doanh nghiệp, điều này sẽ giúp doanh nghiệp hạn chế bị tác động bởi biến động giá cả thủy sản, góp phần ổn định biên lợi nhuận gộp và chất lượng nguồn nguyên liệu. Hiện nay, tỷ lệ tự chủ của một số DN đầu ngành là VHC (70%), ANV (100%), FMC (30%) và MPC (10%),…trong đó nổi bật là ANV đã khép kín chuỗi giá trị bằng việc tự chủ cả 100% nguồn thức ăn chăn nuôi.
Nguyên liệu tươi sẽ được đưa về nhà máy để chế biến, đông lạnh và đóng gói tạo ra thành phẩm để đem đi tiêu thụ. Thành phẩm của mỗ doanh nghiệp sẽ khác nhau tùy thuộc vào thị trường mục tiêu và khả năng thêm giá trị gia tăng vào sản phẩm.
Đối với ngành cá tra, thành phẩm sẽ bao gồm sản phẩm chính yếu như cá tra fillet cho tới những sản phẩm có nhiều added-value hơn như surimi, chả cá, chả lụa, và cả những sản phẩm đã qua tẩm ướp thậm chí là có thể ăn liền (ready-to-eat). Doanh nghiệp thường sẽ phát triển sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường mục tiêu. Ví dụ đối với VHC đó là thị trường Mỹ, ANV tập trung vào thị trường nội địa và Trung Quốc - Hong Kong.
Ngành tôm cũng tương tự như vậy. Ngoài nhưng sản phẩm cơ bản như tôm tươi, tôm ép, các DN còn phát triển những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn như tôm hấp, tôm tẩm bột, thậm chí nhiều DN như Minh Phú (MPC) đã phát triển được sản phẩm cao cấp đạt chất lượng để làm Shushi phục vụ cho những thị trường khó tính như Nhật Bản và có giá trị gia tăng cao hơn nhiều.
Cơ cấu sản phẩm và mức độ giá trị gia tăng mà doanh nghiệp có khả năng thêm vào sản phẩm là 1 yếu tố quan trọng để đánh giá và quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.
Sau quá trình sản xuất thành phẩm, phụ phẩm ngành thủy sản như da cá, mỡ cá, đầu tôm (chiếm tỷ trọng khối lượng không hề nhỏ) cũng đang được các doanh nghiệp tận dụng để làm đầu vào dây truyền sản xuất những sản phẩm phụ khác. Tiêu biểu nhất là Nhà máy sản xuất C&G (Collagen & Gelatin) với công suất 2.000 tấn/năm do Thuỷ sản Vĩnh Hoàn sở hữu 90% vốn bắt đầu hoạt động từ năm 2015 với sản phẩm chủ yếu là collagen dạng bột. Sau đó, nhà máy này được nâng công suất lên mức 3.500 tấn/năm vào năm 2020. Ban lãnh đạo Thuỷ sản Vĩnh Hoàn cho biết do nhà máy đã hoạt động tối đa công suất nên công ty quyết định tiếp tục mở rộng công suất nhà máy lên mức 7.000 tấn/năm trong năm 2023, dự kiến phần công suất mở rộng sẽ đi vào hoạt động trong 2024.
Với ngành thủy sản, khi mà sản dư địa gia tăng sản lượng là không quá nhiều khi nguồn cung trên thị trường hiện tại đã đáp ứng đủ nhu cầu cho thế giới thậm chí thủy sản Việt Nam nhiều năm còn gặp tình trạng thừa cung khi các đối thủ cạnh tranh đột biến sản lượng với mức giá rẻ hơn thì việc tận dụng nguồn phế phẩm để sản xuất những sản phẩm có giá trị gia tăng cao sẽ là động lực tăng trưởng cho doanh nhiệp. Hiện tại tỷ trọng doanh thu đến từ các sản phẩm phụ này chiếm tỷ trong trong cơ cấu doanh thu của các doanh nghiệp khi chỉ chiếm trên dưới 10% doanh thu mỗi năm và chưa tận dụng hết nguồn phụ phẩm từ quá trình chế biến thủy sản.
Phân phối và tiêu thụ
- Thị trường trong nước: Thủy sản được cung cấp trực tiếp cho chợ đầu mối, siêu thị, hoặc thông qua các công ty phân phối để đến tay người tiêu dùng.
- Xuất khẩu: Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới, chủ yếu là sang các thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, và EU. Các công ty xuất khẩu phải đảm bảo các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Chủ yếu nguồn tiêu thủ của ngành thủy sản là thị trường quốc tế vì vậy giá cước vận tải và chi phí bán hàng chiếm tỷ trọng khá lớn trong cơ cấu giá vốn hàng bán của doanh nghiệp.
Tình hình các doanh nghiệp hiện tại
Mới đây BTCT quý 3 của các doanh nghiệp thủy sản đã được công bố, theo đó doanh thu của các doanh nghiệp vẫn không ngừng tăng trưởng từ giai đoạn đáy 2023, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn ghi nhận doanh thu kỷ lục trong 5 năm trở lại đây như FMC. Lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp được cải thiện hơn so với giai đoạn nền thấp của 2023 và đang cho thấy xu hướng hồi phục dần.
Mặc dù doanh thu không bị sụt giảm nhiều nhưng LNST của doanh nghiệp suy giảm đến từ việc chi phí sản xuất tăng cao và giá bán thấp. Đặc biệt là ngành tôm có chi phí sản xuất tôm cao hơn nhiều so với đối thủ là Ấn Độ và Ecuador. Theo báo cao của Bộ Nong nghiệp và Phát triển Nông thôn, chi phí sản xuất tôm tại Việt Nam dao động từ 3.5 - 4.2 USD/kg, trong khi chi phí sản xuất tôm tại Ấn Độ và Ecuador chỉ khoảng 2.7-3 USD/kg và 2.2 - 2.4 USD/kg. Điều này khiến biên lợi nhuận của ngành tôm Việt Nam bị bào mòn do phải cạnh tranh gay gắt về giá bán xuất khẩu, doanh thu thì không bị ảnh hưởng nhiều nhưng LNST nhiều doanh nghiệp thì giảm nghiêm trọng kẻ từ 2023, thậm chí vua tôm Minh Phú (MPC) còn báo lỗ 3 quý kể từ quý 1/2023. Thị trường tôm Nhật Bản là điểm đến của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay nhờ việc ưa chuộng sản phẩm chế biến sâu.
Đối với ngành cá tra áp lực cạnh tranh đến từ mặt hàng thay thế cá rô phi đã giảm sút khi nông dân Trung Quốc từ bỏ việc nuôi cá vì biên lợi nhuận quá thấp kể từ đầu năm 2024 làm giảm sản lượng xuất khẩu ra thế giới đặc biệt là thị trường Mỹ. Nhờ vậy mà ngành cá tra có tín hiệu phục hồi phục về giá bán tại thị trường Mỹ nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với giai đoạn 2022.
Giá cước vận chuyển điều chỉnh mạnh từ cuối tháng 7 vừa qua có thể giảm bớt gánh nặng chi phí vận chuyển cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cũng là một yếu tố tích cực làm giảm gánh nặng chi phí cho các doanh nghiệp.
Thị trường Mỹ và châu Âu có nhiều triển vọng đối với cá tra vào nửa cuối năm, đặc biệt hưởng lợi từ sắc lệnh cấm bán cá minh thái từ Nga.
Tóm lại thì vì đặc thù đối tượng của ngành thủy sản là sinh vật sống nên tính chu kỳ biến động rất phức tạp không chỉ bởi nhu cầu thị trường, giá cả mà còn là yếu tố mùa vụ. Những yếu tố này không chỉ tác động lên từng giai đoạn mà còn liên kết chặt chẽ, tạo ra các chu kỳ ngắn hạn và dài hạn trong sản xuất và tiêu thụ thủy sản. Năng lực cạnh tranh đến từ những doanh nghiệp thủy sản cũng không bền vững và dễ sao chép. Vì vậy, ngành thủy sản nói chung sẽ chỉ phù hợp để giao dịch đầu cơ theo chu kỳ và sẽ khó thỏa mãn các tiêu chí để đầu tư giá trị lâu dài.